Như chúng ta đã biết, cổ tức được xem là nguồn thu nhập duy nhất mang lại cho nhà đầu tư khi nhà đầu tư không bán cổ phiếu đi. Tuy nhiên, trên thị trường luôn luôn có những DN không thực hiện việc chi trả cổ tức.

Chính sách cổ tức bằng 0 có thể được họ duy trì trong một khoảng thời gian dài, ít nhất là vài năm. Có phải điều đó đồng nghĩa rằng, nhà đầu tư sẽ không có thu nhập gì khi nắm giữ cổ phiếu của các DN như vậy? Vậy tại sao họ vẫn chấp nhận mua cổ phiếu không cổ tức? Liệu rằng, so với các DN thực hiện chi trả cổ tức thì cổ phiếu của các công ty này có kém hấp dẫn hơn chăng?

Nhiều người vẫn lầm tưởng cho rằng, cổ tức là thu nhập duy nhất mang lại cho nhà đầu tư. Thực tế, tổng sinh lợi của việc nắm giữ một cổ phiếu bao gồm hai phần: cổ tức và phần thặng dư vốn tức chênh lệch giữa giá bán và giá mua.

Từ đây sinh ra hai khái niệm: cổ phần thu nhập và cổ phần tăng trưởng. Với cổ phần thu nhập thì nhà đầu tư chủ yếu kỳ vọng vào dòng cổ tức sẽ nhận được, nghĩa là phần lớn thu nhập là thu nhập do cổ tức mang lại. Ngược lại với cổ phần tăng trưởng, nhà đầu tư nắm giữ cổ phần tăng trưởng chủ yếu kỳ vọng vào phần chênh lệch giá mua bán. Xét về mức độ rủi ro, thì cổ phần tăng trưởng có phần rủi ro hơn, do đó người đầu tư vào cổ phần tăng trưởng thường đòi hỏi một tỷ suất sinh lợi cao hơn. Tùy theo "khẩu vị" của mỗi người mà chọn đầu tư vào DN nào: DN thực hiện chi trả cổ tức một cách thường xuyên, đều đặn hay DN sử dụng tất cả thu nhập tái đầu tư và không thực hiện chi trả cổ tức.

Có một điều mà nhà đầu tư luôn phải nhớ là các DN không hề bị bắt buộc phải thực hiện việc chi trả cổ tức. Chính sách cổ tức hoàn toàn linh hoạt phụ thuộc vào quyết định của công ty trong một thời kỳ xác định.

Thông thường, các công ty lâu đời và đã "trưởng thành" sẽ thực hiện việc chi trả cổ tức rất ổn định. Bạn dễ dàng nhận ra điều này qua các cổ phiếu blue-chip. Lý do là các công ty này khi đã tăng trưởng đến một mức nào đó để trở thành những công ty đầu ngành, thì nhịp độ tăng trưởng chậm lại nhưng tỷ lệ tăng trưởng thu nhập của họ lại vô cùng ổn định.

Chính sách chi trả cổ tức ổn định được thực hiện nhằm giúp DN duy trì vị thế của mình trong ngành bằng cách gia tăng hiệu quả hoạt động và làm hài lòng các cổ đông với khoản cổ tức nhận được hằng năm. Các nhà đầu tư mua cổ phần của các công ty này bởi vì đây thường là những công ty lớn, ổn định và có thương hiệu mạnh. Do vậy, đây là những khoản đầu tư có rủi ro thấp. Hơn thế nữa, các công ty này lại có khuynh hướng duy trì việc chi trả cổ tức đều đặn. Đây có vẻ là nơi an toàn mà nhà đầu tư tìm kiếm để đa dạng hóa đầu tư vào thị trường vốn cổ phần mà không có rủi ro cao như khi đầu tư vào các công ty tăng trưởng.

Hiển nhiên, mặt tốt nhất của cổ tức (tức cổ tức tiền mặt) đó chính là tính thanh khoản rất cao, là lợi nhuận có thể nhận thấy được, chứ không phải là lợi nhuận trên giấy. Tiền mặt trong tay luôn luôn có sự chắc chắn. Ai dám đảm bảo rằng khi toàn bộ lợi nhuận của DN sẽ được tái đầu tư mà không rơi vào túi của các nhà quản trị? Vấn đề chi phí đại diện có thể là một điểm cổ vũ cho nhà đầu tư ưa thích cổ phần được chia cổ tức hơn.

Trong quá khứ, thị trường luôn xem các cổ phần không chi trả cổ tức đến từ các công ty tăng trưởng bởi vì trong giai đoạn tăng trưởng, chi phí thường xấp xỉ hoặc cao hơn thu nhập ròng. Tuy nhiên nhận thức này không hoàn toàn đúng với thị trường hiện nay: các công ty quyết định không chi trả cổ tức danh nghĩa nhằm mục tiêu thực hiện các chiến lược tái đầu tư, thông qua đó, giá cổ phần sẽ được đánh giá cao hơn, sẽ mang lại tỷ suất sinh lợi cao hơn cho nhà đầu tư. Do vậy, nhà đầu tư mua cổ phần không cổ tức mong muốn nhìn thấy các DN này tái đầu tư thu nhập để mở rộng sản xuất và tài trợ cho các dự án khác có khả năng tạo ra tỷ suất sinh lợi cao hơn thông qua việc cổ phần tăng giá. Các công ty như thế thường chỉ là các công ty vừa và nhỏ. Dĩ nhiên, không loại trừ một số DN lớn vẫn quyết định không chia cổ tức để thực hiện tái đầu tư.

Ngoài những điều nói trên, nhà đầu tư nên nhớ rằng, khi mua cổ phiếu của một công ty nào đó, bạn đã trở thành một trong những đồng sở hữu công ty. Do đó bạn hoàn toàn có quyền đối với tài sản và thu nhập tương lai của nó, tương ứng với tỷ lệ vốn góp. Quá nhiều nhà đầu tư đã quên mất rằng, họ không chỉ mua công cụ tài chính mà còn đang đầu tư vào công ty.

Do vậy, là nhà đầu tư thông minh, bạn hãy hỏi chính mình: cách sử dụng tốt nhất thu nhập của DN hiện nay là gì? Tự bản thân mình có khả năng sử dụng cổ tức để tái đầu tư mang lại tỷ suất sinh lợi cao hơn so với trường hợp công ty thực hiện tái đầu tư tất cả các thu nhập hay không? Câu trả lời hẳn nhiên là sẽ khác nhau giữa nhà đầu tư này với nhà đầu tư khác, giữa công ty này với công ty khác.

Cuối cùng, thuế có lẽ cũng là yếu tố cổ vũ bạn đầu tư vào cổ phần không cổ tức. Ở Bắc Mỹ, cổ tức bị đánh thuế hai lần, có nghĩa là các DN thực hiện việc chi trả cổ tức từ lợi nhuận sau thuế và sau đó các cổ đông lại một lần nữa phải nộp thuế trên thu nhập họ nhận được từ cổ tức. Chính vì chính sách thuế như vậy, nhiều công ty lớn chọn việc không chi trả cổ tức tiền mặt. Microsoft là một ví dụ điển hình: dù thừa khả năng chi trả cổ tức tiền mặt, họ đã chọn việc mua lại cổ phần và tái đầu tư. Có những khoảng thời gian rất dài Microsoft không hề thực hiện việc phân phối cổ tức. Mấy năm trở lại đây, Microsoft có thực hiện chi trả cổ tức nhưng không nhiều.

Ở Việt Nam, dự thảo Luật Thuế thu nhập cá nhân đánh trên thu nhập từ chứng khoán vẫn là đề tài tốn không ít giấy mực của báo chí và sự quan tâm của dư luận. Đến ngày Luật đi vào hoạt động, rất có thể nhiều công ty để bảo vệ lợi ích cho các cổ đông và tạo sự hấp dẫn đối với nhà đầu tư sẽ hạn chế chi trả cổ tức tiền mặt, chuyển hình thức phân phối thu nhập cho cổ đông dưới hình thức khác.

Không ai có thể kết luận rằng, cổ phiếu không cổ tức kém hấp dẫn hơn cổ phiếu được chia cổ tức. Việc sở hữu một cổ phần không cổ tức vẫn có những lợi thế riêng. DN có thể không cần phải lo ngại khi quyết định chính sách cổ tức bằng 0 nếu thuyết phục được các cổ đông và nhà đầu tư của mình.


© Copyright 2007 by Intellasia.net